- -

Lý thuyết màu sắc Hậu Ấn tượng

ly-thuyet-mau-sac-hau-an-tuong-07
Facebook
Email
Print

Cơ sở khoa học về màu sắc của trường phái ấn tượng là ánh sáng
Chính sự tán xạ của ánh sáng qua lăng kính cũng cho chúng ta hiểu được hiệu quả của việc kết hợp các hạt màu sắc đặt cạnh nhau.

Paul Signac đưa ra 4 luận điểm của mình để đạt được sự hài hòa và độ sáng cho tác phẩm:
[1]  Sự phối hợp của các sắc tố đơn thuần (tất cả độ sáng và tối của màu);
[2] Sự tách biệt của các yếu tố (màu tự thân, màu ánh sáng, tương tác của chúng, v.v.);
[3] Sự cân bằng của các yếu tố này và tỷ lệ của chúng (theo quy luật tương phản, phân cấp và chiếu xạ);
[4] Sự lựa chọn độ dày nét vẽ tương xứng với kích thước của bức tranh.

Place des Lices Paul Signac

So sánh giữa 2 phương pháp sử dụng màu
Phương pháp sử dụng màu tự thân và màu cảm nhận

Camille Corot, The Bridge at Narni, 1826, oil on paper mounted on canvas, 34 x 48 cm (Musée du Louvre)

Paul Signac, Morning Calm, Concarneau, Opus 219 (Larghetto), 1891, oil on canvas, 65.7 x 81.6 cm (private collection)

Bức Cầu ở Narni sử dụng màu tự thân. Ta sẽ thấy màu xanh của cây, núi, màu vàng đất của đường, dòng sông và màu xanh lơ của núi xa và bầu trời. Phần tối của bức tranh sử dụng shading để làm tối nên trong tranh ko xuất hiện thêm các màu khác ngoài những màu tự thân.

Bức Sáng sớm của Signac cho chúng ta cảm nhận rất khác về màu sắc. Cái đập vào mắt là nhiệt độ màu được tạo ra bởi ánh sáng buổi sớm, của thời tiết, của và mùa. Sự chú ý không đặt vào màu tự thân của vật thể mà vào cảm nhận của họa sĩ về màu sắc khi ánh sáng tác động vào cảnh vật. Màu đen không xuất hiện trong tranh.

Hai phương pháp đặt màu của Hậu ấn tượng

Divisionism

Màu sắc cảm nhận được của bất kỳ đối tượng nhất định nào là kết quả của nhiều yếu tố, bao gồm màu cục bộ của đối tượng, nhiệt độ màu của ánh sáng chiếu vào đối tượng đó, màu phản chiếu có thể có từ các đối tượng gần đó, phối cảnh khí quyển (làm cho các đối tượng ở xa có màu xanh lam hơn- xám) và, như chúng ta sẽ thấy, hiệu ứng của “độ tương phản đồng thời” với các màu liền kề. Thay vì hòa trộn tất cả các yếu tố này với nhau, Divisionism chia rẽ khiến chúng tách rời nhau. Cỏ tiền cảnh trong Signac’s Evening Calm bao gồm các chấm màu vàng và cam – màu của ánh sáng – để thể hiện cách các cây xanh được sưởi ấm bởi ánh sáng của mặt trời buổi tối.

 

Pointilism

Là phương pháp vẽ các chấm màu cạnh nhau để tạo ra hiệu ứng của một màu tổng thể khác. Georges Seurat được ghi nhận là người đã phát triển kỹ thuật này, và một trong những bức tranh cận cảnh của ông trông không khác gì một bức ảnh GIF được pha màu, như bạn có thể thấy trong ví dụ này về ảnh chụp cận cảnh một trong những bức tranh của Seurat bên cạnh một bức tranh hình ảnh GIF nổi bật với bảng màu chỉ có 8 màu và hòa sắc hoa văn.

 

Pointilism

Hiệu quả màu sắc khi phối hợp các màu bổ túc với nhau.

Luật tương phản

Signac cũng đề cập đến nhu cầu của nghệ sĩ phải tính đến “quy luật tương phản, chuyển màu và chiếu xạ”. Những “định luật” này đề cập đến các nguyên tắc tương tác màu sắc được khám phá bởi các nhà lý thuyết thế kỷ 19 như Michel Chevreul, Ogden Rood và Charles Henry, dường như hứa hẹn rằng toàn bộ nghệ thuật có thể được thay thế cho các nguyên tắc khoa học nghiêm ngặt.

Đóng góp nổi tiếng nhất của Chevreul cho lý thuyết màu sắc là “quy luật tương phản đồng thời”, đề cập đến cách nhận thức của chúng ta về màu sắc thay đổi so với các màu liền kề. Ví dụ, hãy xem cùng một mẫu màu xanh lam xuất hiện như thế nào trên trường màu xanh lá cây sáng so với trường màu cam xỉn.

Nóng tạo cảm giác gần, Lạnh tạo cảm giác xa

Theo nguyên tắc chung, màu sắc nóng sẽ tạo cảm giác nổi, gần hơn; trong khi sắc độ lạnh tạo cảm giác chìm hoặc có vẻ xa hơn. Như bạn có thể thấy ở ví dụ bên phải, khối màu xanh dương trông như thụt xuống, như thể nó là một lỗ ở trung tâm của khối màu đỏ. Ở phía bên phải của ví dụ, bạn thấy hiệu ứng ngược lại, với khối màu đỏ trông gần như thể nó là một tòa tháp nhô ra từ khối màu xanh. Màu nóng – đỏ – đi gần lại, và màu lạnh – xanh dương – đi xa ra.

Sự ảnh hưởng của bối cảnh rất quan trọng

Chúng ta không phải cứ dùng màu sáng là sẽ tạo cảm giác nổi lên. Điều này còn phụ thuộc vào bối cảnh xung quanh nó. Ở hình bên phải, nền màu xanh lơ nhạt làm cho hình vuông xanh sáng trông  tụt xuống còn ở mảng màu xanh đậm thì hình vuông sáng nhìn nổi lên. Điều này cho thấy tầm quan trọng rất lớn của bối cảnh xung quanh đến sự biểu hiện của vật thể.

Nhiệt độ màu có tác động mạnh hơn sắc độ

Ở ví dụ bên cạnh ta có thể thấy 2 màu tím và vàng cam được lấy nguyên từ bánh xe màu đặt trên cùng 1 nền xanh lam. Màu tím là màu xuất hiện ngay cạnh màu lam trên bánh xe màu nên có độ lạnh gần tương đồng và tạo cảm giác hòa lẫn vào nhau. Màu vàng cam là màu bổ túc với màu lam nên tạo cảm giác nổi bật và gần hơn.

Ví dụ bên dưới cũng thể hiện rõ khi hình vuông màu xanh đặt trên nền tím nhạt tạo cảm giác xa còn hình vuông tím ở nền xanh làm lại nổi bật và có xu hướng đi gần về phía người xem.

 

Facebook
Email
Print

Responses

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

KHÓA HỌC DÀI HẠN

KHÓA HỌC NGẮN HẠN

Đăng nhập